TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
NGÔN NGỮ
 
 
Thu viện ảnh
 Thời tiết Minimize | Maximize
 Hà nội  ° 
 Hải phòng  ° 
 Đà nẵng  ° 
 Hồ chí minh  ° 
Truy cập : 9286105
 
THƯỜNG THỨC TQ HỌC
Tết, pháo, câu đối và mười hai con giáp trong văn hóa Trung Hoa, nguồn gốc và truyền thuyết (23/03/2015)

1. Tết âm lịch (nông lịch tân niên) là tết cổ truyền lớn nhất trong các lễ tết của một năm âm lịch, đã là di sản quý báu trong văn hóa Trung Hoa. Trước đây, Tết âm lịch thường được gọi là Tết Nguyên đán (元旦), ngoài ra có một số tên gọi như: Nguyên nhật (元日), nguyên thần (元辰), nguyên xuân (元春), nguyên chính (元正), nguyên sóc (元朔), tam nguyên (三元), tân niên (新年), đoan nhật (端日), niên tiết (年节), xuân tiết (春节)...(1) Nhưng bắt đầu từ năm 1912, thuật ngữ Tết Nguyên đán được người Trung Hoa dùng để chỉ Tết dương lịch (công lịch) còn Tết âm lịch gọi là Xuân tiết. Cụ thể là sau khi lên làm Đại Tổng thống Trung Hoa dân quốc, Tôn Trung Sơn đã quyết định dùng dương lịch theo thông dụng nhiều nước trên thế giới, lấy ngày 1/1/1912 dương lịch làm ngày 1 tháng 1 năm mở đầu Dân quốc (Dân quốc nguyên niên), nhưng vẫn duy trì dùng âm lịch. Do đó, để phân biệt Tết âm lịch và Tết dương lịch, Tôn Trung Sơn lấy ngày 1 tháng 1 năm dương lịch làm ngày mở đầu Tết Nguyên đán, lấy ngày 1 tháng Giêng năm âm lịch làm ngày mở đầu Xuân tiết (春节). Đến ngày 27/9/1949, nước CHND Trung Hoa chính thức ban hành quyết định gọi Tết dương lịch là Tết Nguyên đán, Tết âm lịch là Xuân tiết(2). Thực ra, chữ Xuân tiết được các nhà nghiên cứu tìm thấy sớm nhất trong thiên Dương Chấn truyện, tác phẩm Hán thư của Phạm Diệp thời nhà Tống, nhưng nó chính thức được dùng với tư cách là một danh từ chuyên để chỉ Tết âm lịch thì phải kể từ năm 1949 đến nay.   

Học giả Trung Quốc giải thích "Nguyên là mở đầu, đán là buổi sớm. Nguyên đán (元旦) là để chỉ buổi sớm ngày đầu tiên trong một năm. Trên thực tế, mốc mở đầu Tết Nguyên đán cũng thay đổi theo quy ước của một số triều đại phong kiến Trung Hoa. Ví như nhà Hạ lấy ngày 1 tháng 11, nhà Thương lấy ngày 1 tháng Chạp (tháng 12), nhà Tần lấy ngày 1 tháng 10... Đến thời Hán Vũ Đế đã căn cứ vào ghi chép hiện tượng thiên nhiên, lấy ngày 1 tháng Giêng làm ngày đầu tiên của tháng đầu tiên trong năm, tức là ngày Nguyên đán - ngày mùng một tết. Từ đó về sau, thời gian bắt đầu của Tết Nguyên đán cổ truyền mới được ổn định(3). “Nguyên đán” chính thức được dùng để làm tên gọi năm mới có từ thời nhà Hán, xuất hiện trong “Thái sơ lịch”(太初历) do Hán Vũ Đế sáng chế, ban hành từ năm 104 TCN, trong đó xác định tháng Giêng (nông lịch) làm tháng đầu tiên của một năm, lấy ngày mùng một tháng Giêng làm ngày đầu tiên của năm mới. Do vậy, thuật ngữ “Nguyên đán” làm tên gọi năm mới của Trung Quốc tính đến nay đã hơn 2000 năm(4).

Tuy vậy, trước khi chính thức Tết Nguyên đán, những tập tục thuộc nội hàm của nó đã xuất hiện khá rõ từ thời nhà Hạ, gắn với tục tế Lễ tháng Chạp (Lạp tế), chủ yếu cúng khấn trời đất và tổ tiên, cầu cho cuộc sống bình yên, no ấm, mưa gió thuận hoà, mùa màng bội thu. Trong dịp này, ngoài việc giết lợn, mổ bò, họ còn hoá trang, vẽ mặt nạ hình chim, nhảy múa nhộn nhịp(5). Thời nhà Hạ gọi là Tuế (), thời Thương gọi là Tự (), đến thời Chu gọi là Niên () gắn với ý nghĩa thời gian, liên quan trực tiếp tới nghề nông và lịch pháp(6). Bởi vậy, trong văn hóa dân gian Trung Hoa, người ta đã giải thích nguồn gốc của Tết Nguyên đán cổ truyền gắn với truyền thuyết về Niên cùng với tục đốt pháo (ở đây là pháo nổ, ý phân biệt với pháo hoa) và treo câu đối đỏ.

Theo họ, Niên là một loài quái vật rất hung dữ, chủ yếu sinh sống ở vùng biển. Mỗi năm vào lúc giao thừa, nó lại về thôn làng, bắt người, tàn sát vật nuôi, phá hoại nhà cửa, cây cối, khiến ai cũng sợ hãi. Nhân dân nghĩ nhiều cách đối phó với Niên nhưng không có hiệu quả. Vì vậy, mỗi năm cứ chuẩn bị đến giao thừa, họ lại phải rời bỏ thôn làng, lánh ẩn lên núi cao, mấy ngày sau mới trở về. Nhưng có một lần, sau khi người dân đã lên núi tránh nạn thì xuất hiện một cụ già mặc quần áo màu đỏ, đem đào phù (桃符) màu đỏ đến treo lên cửa từng nhà (chính là bùa đào, câu đối tết), đồng thời cắm cây trúc đang cháy rừng rực, phát ra tiếng nổ tanh tách. Niên nhìn thấy màu đỏ của đào phù và ngọn lửa cháy cùng tiếng nổ tanh tách của cây trúc đã vô cùng sợ hãi chạy thẳng về biển, không dám trở lại nữa. Khi người dân trở về làng, thấy mọi vật đều bình yên vô sự, lập tức tổ chức ca hát, nhảy múa tỏ sự vui mừng khôn xiết. Để kỷ niệm về sự việc này và bày tỏ lòng biết ơn cụ già đã nghĩ cách cứu giúp dân làng, họ quyết định mỗi năm vào đêm giao thừa đều làm lễ ăn mừng và phải đốt pháo trúc cùng treo câu đối đỏ để xua đuổi quái vật phòng khi nó trở lại sát hại thôn làng. Tết ra đời từ đó(7).

Trong truyền thuyết ấy, tuy có nhiều yếu tố hoang đường và đậm màu sắc dân gian, nhưng đã phản ánh thực chất về tập tục của tết cổ truyền là nhằm thể hiện tâm nguyện của nhân dân xua đuổi ác quỷ, tiêu trừ tai hoạ, cầu nguyên may mắn, cuộc sống an lành, hạnh phúc. Cũng từ đó mà các chữ phúc (), lộc (), thọ (寿), hỉ (: vui), cát (: thuận lợi, tốt lành)... được đẩy lên giá trị cao nhất trong dân gian, dần trở nên quen thuộc, sử dụng nhiều hơn trong các gia đình, đặc biệt là mỗi khi tết đến xuân về(8).

2. Trong văn hóa Trung Hoa, Tết âm lịch có nhiều tập tục phong phú và đa dạng cùng một số điều cấm kỵ, trong đó câu đối tết và tục nổ pháo cũng là di sản văn hóa đã được tích lọc qua mấy ngàn năm lịch sử.

 Có thể nó tiền thân của câu đối chính là đào phù (桃符), được dân gian Trung Hoa xem như một loại thần tượng hoặc là thần danh, dùng để trừ qủy đuổi tà, sau gọi là xuân liên (春联), đối liên (对联), trở thành một hoạt động văn hóa quan trọng. Văn hóa câu đối tết được biết đến ở Trung Hoa một cách chính thức là từ năm 964. Sang thời Minh thì phổ biến khá rộng rãi vì vua Chu Nguyên Chương rất thích câu đối, nên đã yêu cầu các gia đình treo câu đối trong dịp Tết Nguyên đán(9). Căn cứ vào vị trí dán câu đối, người ta chia thành các loại như: “Môn tâm” - dán ở chính giữa cánh cửa; “Khuông đối” - dán trên hai cánh cửa phải và trái; “Hoành phi” - dán ngang trên dạ cửa...(10) Trong số nhiều loại câu đối tết, phổ biến là loại câu đối treo hai bên cửa nhà. Cùng với sự phát triển thời đại, nội dung và hình thức của nó không ngừng đổi mới, ngày càng đa dạng, phong phú về nội dung lẫn hình thức, trở thành nét văn hoá câu đối tết. Ngoài ý nghĩa ban đầu, giờ đây nó còn thể hiện sự chúc tụng, lý giải hiện tượng xã hội và một số hiện tượng trong cuộc sống.

 Khởi đầu tục đốt pháo vào đêm giao thừa cũng được xem như một phương thức hữu hiệu xua đuổi quái quỷ tà ma, sau này được dân gian nâng ý nghĩa lên thành tục đốt pháo lúc gia đình có việc lớn, việc mới như lễ cưới hỏi, mừng tân gia, mừng thọ, đám giỗ tổ, khai trương công ty, nhà hàng... với hy vọng đem đến may mắn, an lành cho gia chủ, đồng thời tạo sự hưng phấn cho người người tham gia, cũng hàm ý từ biệt cái cũ và chào đón cái mới. Hiện nay, đốt pháo nổ là việc làm trái pháp luật, nhưng dưới góc độ lịch sử và đặt nó trong dòng chảy văn hoá, nhiều học giả Trung Quốc đã chỉ ra công năng xã hội nhất định của tục nổ pháo vào Tết Nguyên đán. Đó là đốt pháo để tăng thêm sự dũng cảm của con người trong chế ngự thiên nhiên; giải toả tâm lý dân gian, xua đuổi tà quỷ, gạt trừ bệnh tật, tăng thêm tự tin trong cuộc sống. Đốt pháo cũng là để gửi gắm niềm hy vọng tươi đẹp ở ngày mai, đoán xem vận mệnh trong tương lai. Tiếng pháo giao thừa sẽ làm tăng thêm không khí rộn ràng, tươi vui; là cầu nối năm cũ với năm mới, tiễn cái rủi ro, thỉnh cầu may mắn(11).         

Tài liệu Trung Quốc khẳng định tục đốt pháo trong năm mới ở nước này có lịch sử hơn 1600 năm. Lúc đầu do chưa có thuốc súng nên người ta dùng tiếng nổ của cây trúc làm pháo, gọi là bộc trúc (爆竹) hay pháo trúc - loại ống trúc kín hai đầu được đốt cháy, phát ra tiếng nổ như pháo sau này. Đến thời nhà Đường (618-907), pháo trúc được mở rộng chủng loại, bao gồm cả pháo tre, nhân dân gọi đây là bộc can (爆竿). Sau khi phát minh ra thuộc súng, người ta nhồi thuốc nổ vào ống tre, trúc đốt nổ to hơn. Đến thời nhà Tống (960-1279), Trung Quốc đã biết sử dụng giấy để quấn làm pháo, họ gọi là bộc trượng (爆仗), sau đó xâu thành dây gọi là tiên bào (鞭炮) - tức bánh pháo, pháo chuột, pháo dây. Sau cùng mới xuất hiện pháo hoa. Trải qua nhiều triều đại, tục đốt pháo đã trở thành tiêu điểm của năm mới và mãi đến năm 1988 thì Trung Quốc mới ban lệnh cấm nổ pháo(12).

Hình ảnh về pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi vẫn lắng đọng trong nhiều ca khúc, bài thơ, câu đối và thường đi cùng với xuân, rượu và hoa. Điển hình như câu đối nổi tiếng của Trung Hoa:


Chữ Hán

Phiên âm

Tạm hiểu

天增岁月人增寿

Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ

Trời đất tăng ngày tháng, ví như người tăng thêm tuổi thọ.

春满乾坤福满门

Xuân mãn càn khôn phúc mãn môn

Mùa xuân về đầy trời đất, ví như hạnh phúc đầy nhà.

爆竹声声除旧岁

Bộc trúc thanh thanh trừ cựu tuế

Tiếng pháo trúc báo hiệu xua đi năm cũ.

梅花点点报新春

Mai hoa điểm điểm báo tân xuân

Hoa mai nở báo hiệu xuân mới đang đến

Đặc biệt là bài thơ Nguyên nhật của tác giả Vương An Thạch - nhà chính trị, nhà cải cách, nhà văn lỗi lạc thời Tống, sáng vào năm 1068.

Chữ Hán

Phiên âm

Dịch thơ (Trần Trọng San dịch)

《元日》

Nguyên nhật

Tết Nguyên Đán

爆竹声中一岁除

Bộc trúc thanh trung nhất tuế trừ,

Hết một năm rồi, tiếng pháo đưa,

春风送暖入屠苏

Xuân phong tống noãn nhập Đồ Tô.

Gió xuân thổi ấm chén Đồ Tô.

千门万户曈曈日

Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật,

Ngàn cửa muôn nhà vừa rạng sáng,

总把新桃换旧符

Tổng bả tân đào hoán cựu phù.

Đều đem đào mới đổi bùa xưa.

 


Cũng vì quá hoài niệm về pháo và nặng lòng với nguồn gốc văn hoá của nó mà hiện nay một số học giả Trung Quốc đề nghị với Chính phủ nên khôi phục lại tập tục đốt pháo nổ trong đêm giao thừa nhằm duy trì ý vị của Tết. Họ cho rằng, “đốt pháo là một bộ phận tạo thành và là dấu hiệu nhận dạng chủ yếu của Tết âm lịch, là phong tục truyền thống có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là một bộ phận của văn minh Trung Hoa”(13). Vì rằng, “ngày nay nội dung Tết âm lịch thay đổi quá nhiều. Nhân dân theo đuổi Tết dương lịch mà làm giảm hứng thú nhất định đối với Tết âm lịch. Việc duy trì tục nổ pháo sẽ khôi phục đến 90% ý vị của tết và đây là một biện pháp lôi cuốn dân gian trở về với tết cổ truyền của dân tộc”(14).

3.    Nói đến Tết âm lịch, chúng ta liên tưởng đến 12 con giáp trong tổ hợp Can – Chi(15). Đây là di sản văn hóa hết sức phong phú của Trung Hoa nhưng cũng là một thành tố quan trọng trong văn hóa một số quốc gia trên thế giới, nhất là đối với Việt Nam. Tác giả Lý Thụ Huy đã viết: “12 cầm tinh ghi thuộc tướng, năm sinh của con người, ghi năm - tháng -ngày - giờ - thời khắc. Nó cũng gọi là 12 thú lịch, được lưu dùng rộng rãi tại một số dân tộc, quốc gia ở châu Á, Đông Âu và Bắc Phi”(16).  Tương ứng với 12 Địa chi (地支) là 12 con vật được chọn làm đại diện, gọi là 12 cầm tinh (生肖), 12 thú lịch (兽历), 12 tương thuộc (属相)(17). Tuy nhiên, mỗi dân tộc lại có quan niệm chọn con vật và xếp thứ tự các con vật ấy tương ứng với Địa chi không hoàn toàn giống nhau. Theo Lý Thụ Huy, hiện nay các dân tộc Hán, Hồi, Tạng, Ha-ni, Xa, Na-xi (Nạp tây), La-hô... của Trung Quốc cùng với nước Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản thì chọn và xếp thự tự tương ứng 12 con giáp đúng với thứ tự của Địa chi là: con Chuột () ứng với Địa chi Tý, Trâu/bò () - Sửu, Hổ () - Dần, Thỏ () - Mão, Rồng () - Thìn, Rắn () - Tỵ, Ngựa () - Ngọ, Dê/cừu () - Vị, Khỉ () - Thân, Gà () - Dậu, Chó()- Tuất, Lợn ()- Hợi.

 Có một số dân tộc không làm như vậy. Ví dụ dân tộc Mao Nan của Trung Quốc, chọn con Sâu thay cho con Hổ, Lợn thay Thỏ còn Mèo thay Thỏ, thay Rắn, Thịt thay Ngựa, Nhân thay . Dân tộc Di ở tỉnh Vân Nam thì xếp 12 con giáp theo thứ tự là: Hổ, Thỏ, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn, Chuột, Trâu... Các nước sắp xếp vấn đề đó cũng không giống nhau. Ví dụ Ấn Độ có các con giáp và xếp theo thứ tự: Chuột, Trâu, Sư tử, Thỏ, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, chim Kim sí (Garuda)(18), Chó, Lợn(19). Ở Việt Nam thì con Mèo tương ứng với Địa chi Mão, nhưng “Trung Quốc trừ dân tộc Mao Nan chọn Mèo còn lại đều chọn Thỏ thuộc Địa chi Mão”(20).

 Trong lịch sử Trung Hoa, việc sử dụng các con vật phối hợp vào Địa chi chính thức được ghi chép (chưa đầy đủ) từ thời Xuân Thu trong sách Kinh thi. Đến thời Tần Thuỷ Hoàng, trong cuốn Nhật thư có ghi chép tỉ mỉ hơn, nhưng về 12 con giáp cũng không hoàn toàn giống ngày nay. Ví dụ, họ lấy con Hươu thuộc về Địa chi Ngọ, Dê thuộc về Tuất(21). Tên 12 con giáp như ngày nay, chính thức được ghi chép từ thời Đông Hán, cụ thể là trong quyển "Luận hoành" của Vương Sung năm 54, viết rằng: “Dần chính là hành Mộc, con vật của nó là Hổ vậy. Tuất là hành Thổ mà con vật của nó là Khuyển (Chó), Ngọ là ngựa, Tý là chuột, Dậu là gà, Mão là thỏ, Sửu là trâu, Vị là dê, Hợi là lợn, Thân là khỉ, Tỵ là rắn, Thìn là rồng. Vị trí của thìn và tỵ là ở Đông Nam”(22).

       Đến nay, ở Trung Quốc vẫn tồn tại nhiều truyền thuyết lý giải về nguồn gốc xuất hiện 12 con giáp. Trong đó, truyền thuyết của dân tộc Hán được nhiều học giả nhắc tới. Tục truyền rằng, thời xưa, Hoàng đế cần 12 con vật làm vệ sĩ cho cung đình nên ra thông báo tuyển chọn. Biết tin này, con vật nào cũng nhận thấy đây là cơ hội hiếm hoi để có thể được tiếp cận đời sống cung đình, nên chuẩn bị rất chu đáo, háo hức đợi ngay dự tuyển. Vì Hoàng đế không công bố trước các tiêu chuẩn tuyển chọn, nên các con vật phải tự trang trí cho bản thân với nỗ lực cao nhất. Khi đó, gà trống đã có bộ lông cườm óng mượt, rất đẹp mắt lại có cặp sừng uốn lượn rất thần khí. Chú rồng nhận thấy mình không có gì nổi bật ngoài cái thân loằn ngoằn nên tìm cách dụ dỗ gà trống mượn đôi sừng. Gà được rồng vừa uốn lượn hoa cả mắt lại buông ra những lời khen êm tai nên đã cao thượng mà cho mượn đôi sừng với một điều kiện là sau khi được tuyển chọn thì rồng phải trả lại.

Còn chú mèo biết mình vốn dĩ hay ngủ dậy muộn nên từ trước đã ngon ngọt nhờ chuột gọi cùng đi dự tuyển. Chuột nhiệt tình nhận lời và bảo mèo cứ yên tâm. Tuy nhiên đến ngày dự tuyển, chuột lặng lẽ đi một mình. Khi chuột đến nơi, thì voi và trâu cũng đã xếp hàng, chuột đành nghĩ cách chui vào mũi làm voi hoảng sợ mà chạy ra khỏi hàng, đồng thời lủi lên trước chân của trâu mà trâu không biết. Hổ và rồng nghĩ mình là vua của núi và biển nên cứ nhởn nhơ, còn thỏ thì lạ lẫm với bộ sừng của rồng nên đi sau hổ và đi trước rồng để ngắm nghía. Rắn, ngựa, dê nối tiếp sau rồng, rồi đến khỉ và gà. Riêng chú chó thì thích trêu chọc thỏ nên bị phạt đứng cuối hàng. Tuy nhiên, một lát sau thấy lợn ủn ỉn đến xếp sau chó. Kết quả là chuột được vào số 1, đến trâu... và lợn cuối cùng. Khi việc tuyển chọn đã xong thì mọi người mới thấy mèo cấp tập chạy đến. Vừa mất cơ hội làm vệ sĩ cung đình, lại sốc vì bị chuột thất hứa nên cau mặt chửi chuột là đồ tồi tệ nhất trần gian, rồi hỏi tội vì sao chuột không gọi mèo. Chuột trả lời rằng, nếu gọi mèo đi cùng thì có thể chuột bị mất cơ hội; đồng thời còn cho mèo một bài học: từ nay về sau nếu muốn được việc thì đừng cậy chờ vào người khác. Quá sốc, mèo liền đuổi chuột ăn thịt. Còn rồng sau khi được tuyển chọn trở về lại ăn quỵt đôi sừng của gà. Biết gà không bơi được, nên rồng ngụp xuống nước mà không ngóc lên. Gà vừa tức lại tiếc của nên mỗi buổi sáng cứ đứng trên cao, cong cổ mà gọi: hãy trả lại sừng cho tôi. Tiếng gà gáy ra đời như vậy(23).

Liên quan đến chuyện 12 con giáp, có một số học giả Trung Quốc chứng minh nguồn gốc 12 con giáp không phải xuất phát từ Trung Quốc mà là từ nước khác; hay có ý kiến cho rằng việc Trung Quốc lấy Thỏ làm đại biểu cho Địa chi Mão là vì giống mèo ở Trung Quốc chủ yếu là mèo từ Ai Cập di cư tới chứ không phải mèo bản địa; rồi chuyện các vị vua Trung Quốc chọn con giáp nào làm con chủ... Chuyện hư thực ra sao, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp được chia sẻ với bạn đọc trong một bài viết khác.  

 

chó thÝch:

(1) Lỗ Kiều: Nguồn gốc Nguyên đán là Xuân tiết , Nguyệt san văn sử, số 1/2009, tr.3, Trung văn.

(2) Ngô Chính Bưu: Phân tích tập tục văn hoá Xuân tiết", Báo dân tộc Trung Quốc, ngày 24/6/2005, tr.6, Trung văn.

(3) Lỗ Kiều: Nguyên đán chính là Xuân tiết, Nguyệt san văn sử, số 1/2009, tr.3, Trung văn.

(4) Tống Tài Phát: Phong tục đón Tết với việc pháp luật bảo hộ di sản văn hoá đốt pháo, Học báo Đại học Dân tộc Trung ương Trung Quốc, số 1 năm 2006, tr.57, Trung văn.

(5) Trương Cát Trung: Nhìn lại nhà nông, số 1, 2006, tr.55, Trung văn.

(6) Ngô Sỹ Bình: Nguồn gốc tập tục Xuân tiết của Trung Quốc, Tạp chí Cuộc sống hài hòa, số 1/2005, tr.56, Trung văn.

(7) Chu Kiến Quốc: Công năng xã hội và ý nghĩa của Xuân tiết, Tạp chí xã hội học, số 2/2002, tr.19, Trung văn.

(8) Chu Kiến Quốc: Công năng xã hội và ý nghĩa của Xuân tiết, Tạp chí xã hội, số 2/2002, tr.19, Trung văn.

(9) Mao Nhụy Nhụy: Từ văn hóa dân gian nhìn về tập tục Xuân tiết, Tạp chí Người quản lý kinh doanh, số tháng 5/2010, tr.250, Trung văn.

(10) Theo Đào Duy Đạt: Nguồn gốc câu đối tết và tập tục dán ngược chữ “Phúc” trong dịp tết của người Trung Quốc, tại: http://nghiencuuquocte. net/forums/topic/nguon-goc-

(11) Đinh Cao: Về việc cấm pháo, Báo Pháp luật Tây bộ Trung Quốc, ngày 15/1/2005, tr.4, Trung văn.

(12) Tống Tài Phát: Phong tục đón Tết với việc pháp luật bảo hộ di sản văn hoá đốt pháo, Học báo Đại học Dân tộc Trung ương Trung Quốc, số 1 năm 2006, tr.59, Trung văn.

(13) Li Úc: Âm thanh pháo trúc, Nhật báo pháp chế, ngày 17/2/ 2005, tr.2, Trung văn.

(14) Lí Thiên Kỳ: Lệnh cấm nổ pháo và việc giữ lại âm thanh pháo trúc, Báo Khai phá Tây bộ, ngày 20/1/2005, tr.6, Trung văn.

(15) Từ thời cổ đại, người ta biết kết hợp 10 thiên can (天干) gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý (甲、乙、丙、丁、戊、己、庚、辛、壬、癸) và 12 Địa chi (地支) gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Vị (mùi), Thân, Dậu, Tuất, Hợi (子、丑、寅、卯、辰、巳、午、未、申、酉、戌、亥) tạo thành tổ hợp 60 Can - Chi để ghi thời gian (năm, tháng, ngày, giờ) và biểu đạt phương hướng.

(16) Lí Thụ Huy: 12 cầm tinh: khởi nguyên và lưu biến, Tạp chí Đại học Sư phạm Tân Cương, số 1/1999, tr.50, Trung văn.

(17) Ngô Dụ Thành: 12 cầm tinh trong văn hoá Trung Hoa, Nxb. Nhân dân, Thiên Tân, 1993, tr.86, 99, Trung văn.

(18) Theo thần thoại cổ Ấn Độ, loại chim này có hình dáng giống như đại bàng nhưng to lớn, thân thể rực rỡ như thần lửa, tính khí rất mãnh liệt. Còn trong kinh Phật, chim Kim Sí là một loài trong Bát bộ chúng, được phiên âm thành nhiều tên là Yết lộ đồ, Già lâu la...

(19) Lí Thụ Huy: 12 cầm tinh, khởi nguyên và lưu biến, Tạp chí khoa học, ĐHSP Tân Cương, số 1/1999, tr.50, Trung văn.

(20) Ngô Dụ Thành: 12 cầm tinh trong văn hoá Trung Hoa, Nxb. Nhân dân, Thiên Tân, 1993, tr.86, 99, Trung văn.

(21) Chu Trị Hoa: 12 cầm tinh là đặc sắc văn hoá cổ đại Trung Hoa, Tạp chí Giang Tô, số 9/1997, tr.18, Trung văn.

(22) Lưu Quốc Trung: Thử bàn về 12 con giáp với 36 cầm, Tạp chí khoa học, Đại học Thanh Hoa, số 1/1999, tr.13, Trung văn.

(23) Trang Thục Viên (chủ biên): Giáo trình Hán ngữ, Nxb. KHXH, Bắc Kinh, 2006, tr.122-123, Trung văn.

TS. Lê Đức Hoàng
Đại học Vinh

 




Các tin khác

Nguồn gốc câu đối tết và tập tục dán ngược chữ "Phúc" trong dịp tết của người Trung Quốc (27/01/2014)
Tập tục "tảo trần" trong dịp tết của Trung Quốc: truyền thuyết và ý nghĩa (21/03/2013)
Nguồn gốc tết nguyên đán cổ truyền của Trung Quốc (05/03/2012)
Về bốn loại sách sử lớn trong nền sử học Trung Quốc: chính sử, biệt sử, tạp sử và dã sử (05/03/2012)
Tác phẩm sử học xuân thu và xuân thu tam truyện (05/03/2012)
Quan điểm Dĩ nhân vi bản (03/03/2012)
Hoà nhi bất đồng gia tài tinh hoá văn hoá Trung Quốc (03/03/2012)
Học thuyết Âm dương Ngũ hành với Y học cổ truyền phương Đông (03/03/2012)
Quá trình truyền bá cơ đốc giáo và văn hoá cận đại phương tây ở Trung Quốc (03/03/2012)
Quan niệm phát triển khoa học (03/03/2012)
 
TIN MỚI NHẤT
ẤN PHẨM - XUẤT BẢN
 
 
TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
 
 
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC - INSTITUTE OF CHINESE STUDIES
Địa chỉ: Số 176 Thái Hà, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 024.32171020; Email: vnics@vnics.org.vn